Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Bỏ việc văn phòng, vợ chồng đi buôn rau kiếm gần 20 triệu/tháng

Sưu tầm: đơn xin mất việc tiếng anh
Bỏ việc văn phòng, vợ chồng đi buôn rau kiếm gần 20 triệu/tháng

Nhiều người bảo vợ chồng tôi “bị khùng” khi bỏ công việc văn phòng, để đi buôn rau. Thế nhưng ít ai biết, thu nhập từ công việc này giúp vợ chồng tôi kiếm gần 20 triệu mỗi tháng.

Chào bạn Hải Yến, nhân vật chính của bài viết “Thời buổi này, không muốn làm văn phòng thì nên kinh doanh gì?”. Sau khi đọc những dòng san sớt của bạn, tôi chỉ muốn gọi điện ngay cho bạn để kể về câu chuyện không giống ai của vợ chồng tôi.

Vốn dĩ tôi nói vậy vì kỳ thực, đã có nhiều người bảo vợ chồng tôi “bị khùng” khi bỏ công tác văn phòng, được ngồi máy lạnh cả ngày để đi “buôn thúng bán mẹt”, lúc nào cũng rau rau và rau.

Chồng tôi từng làm trưởng phòng thiết kế và tôi làm kế toán ở một tổ chức xây dựng. Những năm 2006-2010, thu nhập của hai vợ chồng tôi rơi vào khoảng gần 30 triệu/tháng, chưa kể các khoản thưởng vào các dịp lễ tết.

Thế nhưng, đến năm 2011, đơn vị khởi đầu gặp khó khăn. Cơ quan cắt giảm viên chức và ra chính sách hạ lương. Chồng tôi từ 17 triệu/tháng xuống còn 8 triệu, tôi từ 12 triệu còn 5 triệu/tháng.



Không chỉ bị hạ lương mà chúng tôi còn thường xuyên bị nợ lương. Có thời điểm, phải 4 tháng liền không có lương và vợ chồng tôi buộc phải ứng lương lậu để tiêu xài. Thế nhưng khoản ứng lương cũng nhỏ giọt khi chồng tôi chỉ được hơn 3 triệu/tháng, còn tôi làm kế toán được 2 triệu rưỡi/tháng. Khó khăn chồng chất khi con nhỏ đến tuổi đi học, vợ chồng lại mới mua nhà nên không tích góp được gì.

Rút cục, sau nhiều tháng “giật gấu vá vai”, vay chỗ này đập chỗ khác, tôi khởi đầu tính đến hướng đi mới. Trong bối cảnh các cơ quan đều gặp khó khăn, tôi tính đến việc tranh thủ làm thêm.

Trước hết, tôi thử làm hợp tác viên bán hàng, có tháng kiếm được 1 triệu, tháng vài trăm, dịp lễ tết có khi được 2 triệu rưỡi. Dù có thêm thu nhập nhưng không thể nào đủ được cho 4 người tiêu pha và 2 con nhỏ đến tuổi học hành.

Trong khi tình trạng chậm lương vẫn xảy ra thường xuyên, tôi đã chủ động xin mất việc và đòi số lương lậu cơ quan nợ từ đầu năm. Ở nhà 1 tuần chưa xin được việc mới, tôi thử dậy sớm đi nhập rau rồi về chợ gần nhà bán.

Ngày trước tiên, tôi lãi được hơn 100 nghìn. Ngày hôm sau, tôi lãi 120 nghìn, cứ thế đến cuối tháng, lần trước hết tôi hạnh phúc sau bao lăm ngày vất vả, rút cuộc chỉ nhờ việc bán rau mà tôi kiếm được 5 triệu/tháng.

Hẳn nhiên, bán rau phụ thuộc vào khách hàng và thời tiết. Có những hôm trời mưa, khách không mua hết, tôi đành bán dỡ rẻ hơn giá nhập. Nhưng bù lại những ngày khô ráo, tôi tranh thủ bán đến đêm mới về.

Khách quen càng ngày càng đông, có lẽ bởi trời cho tôi cái tính xởi lởi nên ai cũng quý. Hơn nữa, chiến thuật bán hàng của tôi là bán giá phải chăng và thỉnh thoảng khuyến mãi thêm củ hành, quả quất... Nên rất được lòng khách. Đến tháng thứ 2, tôi đã kiếm được hơn chục triệu/tháng nhờ bán rau.

Thấy kiếm được, tôi bàn chồng thôi việc ở tổ chức để về cùng tôi bán hàng. Thú thiệt tiền kiếm được nhưng riêng việc đi lấy rau từ 2,3 giờ sáng ở chợ làm mai khó nhọc hết sức, đặc biệt là vào ngày mưa gió, hơn nữa lại là phụ nữ càng khó khăn hơn.

Chồng tôi sau 1 tháng ngần ngừ cũng quyết định thôi việc về bán rau với vợ. Có thêm chồng, chúng tôi bán thêm thịt lợn, trứng gà trứng vịt, và tôi muối thêm dưa, cà, kim chi để phục vụ đa dạng hơn.

Đến hiện thời, sau 2 năm thôi việc văn phòng để đi buôn rau, vợ chồng tôi làng nhàng mỗi tháng kiếm được 15 triệu, có tháng 20 triệu.

Hiện nay, nhìn vợ chồng tôi lúc nào cũng lấm lem rau cỏ, người ta nhìn vào chắc không thể mường tượng được, cách đây 2 năm, chúng tôi từng là nhân viên văn phòng ngày ngày quần là áo lượt đi làm. Thế nhưng, không ai biết rằng, trông vợ chồng tôi “xấu xấu bẩn bẩn” như ngày nay nhưng thu nhập lại gấp 5, 6 lần lúc còn đi làm mướn ty. Công tác tuy có nặng nhọc hơn nhưng bù lại, đầu óc lúc nào cũng thoải mái, chẳng phải áp lực sếp trên, chẳng lo thiếu tiền ăn, tiền nuôi con hàng tháng nữa.

Qua câu chuyện của mình, tôi chỉ muốn nhắn gửi với bạn rằng, hãy cứ dạn dĩ thôi việc và kinh doanh nếu như bạn thích và dám làm.

Hạnh Phan (Linh Đàm, Hoàng Mai, Hà Nội)
Đánh giá và báo cáo KPI
Bạn đã hoàn tất thời đoạn đầu của thiết kế KPI, bây chừ là lúc kiểm tra tính hợp thức của chúng và đưa ra câu hỏi “Chúng đang đo lường hiệu suất làm việc tốt đến đâu?” Một lần nữa, cũng tương tự quá trình thiết kế KPQ, bước này sẽ tương tác đến rất nhiều người trong cơ quan, những người trực tiếp đối đầu với các chỉ số KPI.
Kiểm tra
   Đối với hoạt động tài chính, thường thì hệ số tin cậy khá cao do có các công cụ đo lường được thành lập lâu đời. Đối với nhiều góc cạnh phi vật thể, có lẽ hệ số tin cậy thấp hơn. Do đó, sẽ rất hữu ích nếu bạn chú giải lại các quan điểm hay yêu cầu. Cũng cần phải có một ngày hết hạn cho mỗi chỉ số KPI, cũng là ngày để sửa đổi.
   Một tiêu chí đánh giá khác chính là bài đánh giá tổn phí – ích lợi. Nói cách khác, bạn nên xem xét về các chi phí và nỗ lực để giới thiệu và duy trì KPI. Các tổ chức có thể sẽ hiểu lầm lệch đi rằng việc đo lường không phải tốn tiền nong hay thời gian. Ngoài ra, một đôi chỉ số có thể sẽ rất tốn kém để đo đạc để bảo đảm tính hợp lệ và phù hợp, thí dụ như tổn phí hành chính, gia công, phân tách và báo cáo.
Hành vi không lành mạnh
   thỉnh thoảng, các nhân viên sẽ có những ấn tượng sai về chỉ số KPI. Họ có thể sẽ gắn chúng với tiền thưởng và ích lợi nên, sẽ cố gắng hết sức để “đạt mục đích nhưng bỏ qua chủ chốt vấn đề”. Bởi vậy, những người thiết kế KPI cần phải suy nghĩ về những phương pháp tiềm năng để phát hiện ra được những hành vi sai trái và không chân thực, để từ đó thực thi các biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu chúng. Dưới đây là một số các hành vi không lành mạnh hay gặp và cách vượt qua chúng:
- Quá nhấn mạnh vào các dữ liệu định lượng
   Điều này có thể dẫn đến sự bỏ sót các dữ liệu định tính hợp thức. Cách giải quyết là kết hợp các dự liệu định tính vào hệ thống đo lường hiệu suất và nhắc nhở mọi người rằng còn rất nhiều thứ khác đằng sau những con số.
- Đạt được mục đích nhưng bỏ qua cốt lõi
   Điều này có tức là sai lầm tụ họp vào chỉ số KPI thay vì vào các mục đích chiến lược, và sau hết sẽ có thể dẫn đến sự thiếu sót một hướng đi chiến lược. Sự phối hợp tuyên bố nhiệm vụ và mục đích chiến lược vào trong các báo báo và hệ thống theo dõi năng suất, cũng như là trong các buổi xét ưng chuẩn KPI sẽ giúp nhắc nhở mọi người tụ tập vào bức tranh lớn toàn cảnh.
- Thao túng dữ liệu
   Các dữ liệu phi tài chính có thể sẽ bị bóp méo và do đó biểu lộ một bức tranh không đúng về kết quả năng suất thực tế. Để ngăn chặn các dữ liệu thất thường bị cho qua, cần có một sự hiểu biết sâu rộng về các hoạt động và số liệu thống kê.
- Dữ liệu không đồng nhất
   KPI cho mỗi khía cạnh của Balanced Scoreboard có thể sẽ không cùng hướng đến một tuyên bố giá trị. Trong trường hợp này, phải có một cách tiếp cận toàn diện hơn cùng với sự hợp tác từ các chủ sở hữu KPI khác nhau để bảo đảm sự vận hành nhất quán với chiến lược khái quát.
Báo cáo
   Đây là bước chung cục, lúc các nhà thiết kế KPI xác định cách mà KPI sẽ được truyền đạt, cho dù là trong nội bộ hay đưa ra bên ngoài.
- Người đọc và truy vấn cập
   Rất quan trọng để xác định trước ai sẽ nhận được các thông tin về KPI và phân loại họ để phân bổ cách truy cập ăn nhập. Người đọc chủ đạo ở đây là những người trực tiếp tác động đến việc quản trị và đưa ra quyết định dựa trên những KPI đã có. Người đọc thứ cấp là những người ở các phòng ban khác mà có thể hưởng lợi từ các dữ liệu KPI. Người đọc cấp thứ ba là những người thuộc các bên thúc đẩy từ bên ngoài.
- Tần suất báo cáo
   Tùy thuộc vào mục tiêu sử dụng của từng nhóm người đọc, KPI sẽ được báo cáo theo một hướng riêng dành cho từng nhóm. Ví dụ, nếu một KPI được sử dụng để giúp đưa ra quyết định, nó phải được cung cấp thường xuyên hơn; trong khi nếu KPI đó phải có trong bản báo cáo thường niên, nó chỉ cần được truyền đạt 1 lần.
- Kênh báo cáo
   Đây là những kênh được dùng để truyền đạt KPI. Ví dụ, bản báo cáo năng suất tháng, bản tin về hoạt động nội bộ, trang web của tổ chức, báo cáo cho các bên ảnh hưởng theo từng quý, v..V..
- Định dạng báo cáo
   Đây là các cách bộc lộ hiệu suất: theo dạng số, đồ thị và bài trần thuật. Thường nhật, để đạt được hiệu quả tối đa, bạn nên phối hợp nhiều định dạng với nhau. Các dạng bộc lộ trực quan thường có xu hướng giúp cho các thông báo trở nên dễ dàng nắm bắt và hấp thụ hơn, tỉ dụ như các loại biểu đồ, đồ thị, kiểu đèn giao thông, mặt công tơ mét.
Nguồn: TRG

Thứ Ba, 26 tháng 7, 2016

Nhận diện văn hóa đáng sợ của doanh nghiệp

Nhận diện văn hóa đáng sợ của doanh nghiệp
Một công sở lí tưởng là nơi nhân viên coi như “ngôi nhà thứ 2”, là nơi họ được thoải mái phát huy hết khả năng của mình. Trái lại, nếu môi trường làm việc kìm hãm, hạn chế sự phát triển của nhân sự thì quả là “ đáng sợ”.
Dưới đây là 10 dấu hiệu của công sợ “đáng sợ”, liệu bạn có đang làm việc trong cảnh ngộ như vậy?
1. Viên chức luôn phải chú ý tới sắc thái của sếp
Thay vì tụ tập vào chất lượng công việc, viên chức lại luôn chạy theo để làm hài lòng mọi yêu cầu không tương tác tới công việc của sếp. Hơn nữa, mọi hành động đều phải phụ thuộc vào tâm trạng của sếp. Và như vậy, bạn sẽ dần hình thành một nỗi ám ảnh rằng phải làm thế nào để được sếp ưng ý.
2. Mọi người đều nói về người thất bại trong phòng
Khi những cuộc chuyện trò hàng ngày tập trung vào người đang nằm trong “danh sách đen” của sếp, ai là người có nguy cơ bị sa thải cao nhất, bạn sẽ có nỗi sợ về địa vị và quyền lực trong cơ quan. Bạn lo lắng rằng chính mình là người đang được nói tới.
3. Nhân viên mất niềm tin vào lãnh đạo
Khi nhân viên trong doanh nghiệp phải ngừng cố gắng trong công việc và hỏi bản thân “ Liệu có an toàn không viên chức khi san sớt ý kiến của mình với sếp?”, bạn có nỗi sợ về doanh nghiệp. Tại công sở, nơi đôi khi mọi người móc túi ý tưởng của người khác thì niềm tin là điều đáng sợ.
4. Doanh nghiệp đặt ra những mục đích xa vời
Một mục tiêu cụ thể giúp viên chức có định hướng cụ thể để phấn đấu. Ngoài ra, nếu mục đích đó quá xa rời thực tại, nó có thể mang lại nỗi sợ cho viên chức. Ngoài ra, sức ép hoàn thành chỉ tiêu và hàng đống dự án với thời hạn gấp rút cũng là một nỗi ám ảnh với nhiều nhân viên.
5. Doanh nghiệp đặt ra hàng đống lệ luật
Chính sách, quy tắc, quy tắc giúp nhân viên tuân theo nghĩa vụ công việc của mình trong vòng kiểm soát. Nhưng hàng đống quy tắc ( và một số rất phi lí ) áp đặt lên nhân sự sẽ khiến họ cảm thấy mỏi mệt và chán nản. Ngoại giả, một số doanh nghiệp còn có điều kiện chặt chẽ để giữ chân người tài, đây cũng là một nỗi sợ của nhân sự.
6. Công sở hạn chế ý kiến cá nhân
Thử mường tưởng xem, khi bạn và đồng nghiệp đang luận bàn một vấn đề, sếp bỗng nhiên xuất hiện và đề xuất giải tán chỉ vì nghi ngờ Các bạn có kế hoạch mập mờ. Thêm nữa, công ty còn rất hạn chế cho phép viên chức phát biểu ý kiến cá nhân. Một công sở như vậy thật tội phạm túng và đáng sợ.
7. Thông báo không được công khai rộng rãi
Đáp án độc nhất vô nhị cho thắc mắc “ nhân viên có thể tìm hiểu thông báo từ đâu?” là “ Hỏi người quản lí”. Thông tin trong phòng rất hạn chế và thậm chí, thỉnh thoảng viên chức chỉ biết về giao kèo mới của công ty ưng chuẩn báo chí. Viên chức có thể phát hoảng trước tình trạng “ mù” thông tin khi làm việc trong môi trường như vậy.
8. Thăng tiến không minh bạch
Khi người được thăng chức và trao thưởng một cách nhanh chóng là những kẻ siểm nịnh, nỗi sợ là điều thế tất đối với những viên chức luôn nỗ lực hết mình vì chất lượng công việc. Người lãnh đạo của công ty đó luôn được vây vòng vèo bởi những người chỉ biết nói có bởi nó thoải hơn là sự thật.
9. Công sở không có thách thức
Trong môi trường này, viên chức lo sợ vì không có thời cơ thách thức bản thân. Và nó sẽ dần giết chết ý thức và động lực làm việc tích cực của họ.
10. Sếp quản lí bằng nỗi sợ
Khi sếp thường đưa ra quyết định trong bí ẩn, “bố thí” thông tin một cách nhỏ giọt,   tuyển dụng   dựa trên cảm tính cá nhân hơn là năng lực của người tìm việc, hạn chế, thậm chí cấm nhân sự diễn đạt cảm nghĩ cá nhân, đó là sự quản lí bằng nỗi sợ.
Quantri.Vn
Vận dụng chuỗi cung ứng vào quản lý   viên chức
Theo lời Peter Cappelli, giám đốc quản trị của Wharton thì nhược điểm trong việc quản trị các đề nghị về tuấn kiệt “ngang bằng với nhược điểm trong việc quản lý chuỗi cung ứng của bạn”.
Còn hiện thời, theo thời kì, hồ hết các ông chủ công ty đều có được những kinh nghiệm vô giá về việc   kiếm tìm   và giữ chân người giỏi.
Ông cho biết những nhà quản trị chuỗi cung ứng “luôn hỏi những câu hỏi như ‘Chúng ta có những phòng ban phù hợp trong kho không?, ‘Chúng ta có biết nơi nào để có được những phần đó khi chúng ta cần không?, hay ‘Có cần đầu tư nhiều tiền để thực hành việc kiểm kê hay không?’.
Những câu hỏi đó thường chỉ tác động tới những đơn vị đang cố gắng để quản lý được các đề xuất về hào kiệt của họ.”. Vậy nên nói một cách khác các nguyên lý của quản trị chuỗi cung ứng, với tầm quan trọng của nó trong việc sinh sản theo công đoạn, đều có thể được áp dụng cho việc quản trị nhân tài.
Và theo Cappelli thì: “Đây là một mô hình khác biệt hoàn toàn trong việc suy nghĩ về thiên tài”. Theo triết lí của ông đưa ra thì ông đã xác định rõ được chứng bệnh chủ yếu về lĩnh vực   quản trị nhân viên   , cái đó nó là “cảm giác quá mẫn cảm, mềm mại cùng với chút khả năng vận dụng vào các vấn đề kinh doanh. Thực tiễn đặc thù công tác quản lý viên chức là đáp ứng các nhu cầu của các cá nhân, nắm bắt được diễn biến tâm lý mà họ thấy thích hợp cũng như nên thực hiện điều gì để giúp cho họ phát triển và tăng cường.
Nhưng nếu bạn là một người thuê lao động lo lắng về những vấn đề nảy sinh kiểu như các rắc rối tài chính của doanh nghiệp thì bạn phải nhờ vào quản lý nhân sự để kiểm tra được những nhân viên mà bạn đã mất tiền và chi phí   tuyển dụng   , và điều gì sẽ xảy ra nếu bạn không có được đúng những người phù hợp vào làm những công tác cần thiết.”
Cappelli cũng chú ý rằng những người tập kết vào quản trị chuỗi cung ứng luôn phải giải quyết những kiểu câu hỏi như vậy suốt ngày. Ông cho rằng: “Việc quản lý các chuỗi cung ứng thực ra là quản lý tình trạng không rõ ràng và hay đổi thay. Sự không rõ ràng giống nhau này tồn tại trong các đơn vị cùng với việc quan tâm tới việc phát triển người tài. Các cơ quan thi thoảng ít biết được cái họ sẽ xây dựng trong năm năm tới hay họ cần những kỹ năng nào để làm cho điều đó xảy ra; họ cũng không biết liệu những người mà họ có trong các nguồn của mình sẽ còn phát huy được không.”
Và điều quan yếu của vấn đề đó là nhiều công ty đã bị dồn vào theo một mô hình cũ rích dựa trên giả thiết rằng chúng có thể đáp ứng được xác đáng các nhu cầu về tài năng của mình phê duyệt các mô hình dự đoán và lập mưu hoạch tĩnh, mặc dầu thị trường toàn cầu là một môi trường ngày càng khốc liệt và không thể dự đoán được. Cappelli giảng giải rằng: “Ý tưởng mà chúng ta có thế có được kiên cố duyệt việc lập kế hoạch thực ra không còn đúng nữa. Thay vào đó, chúng ta phải giải quyết tình trạng không rõ ràng này bằng cách trở thành thích nghi và phản ứng nhanh hơn.”
Việc ngồi yên trên kệ
- Cụm từ “quản lý tài năng” đơn giản chỉ có tức thị “cố gắng để dự đoán được cái chúng ta sẽ phải cần và sau đó là lập kế hoạch để đáp ứng được nhu cầu đó”, Cappelli giảng giải và theo ông thì khái niệm về quản trị chuỗi cung ứng về cơ bản cũng giống như vậy: “Chúng ta nghĩ rằng nhu cầu về các sản phẩm của chúng ta trong năm tới phải đạt được là ‘X’. Vậy chúng ta tổ chức nội tại như thế nào để đáp ứng được nhu cầu đó? “
- Vấn đề căn bản về chuỗi cung ứng đó chính là việc nảy sinh về kiểm kê, điều mà trong điều kiện quản trị nhân tài thường phát sinh khi những người thuê cần lao bàn về việc có được một “sự hiểu biết thấu đáo” về tuấn kiệt. Chính thế mà Cappelli nói rằng: “Bạn nghe thấy cụm từ này rất nhiều ‘chúng ta có một sự hiểu biết thấu đáo’, hoặc ‘chúng ta có cả một nguồn thiên tài lớn’ – và điều này được nói với lòng tự hào. Nhưng nếu bạn nghĩ về nó trong điều kiện chuỗi cung ứng thì một sự hiểu biết thấu đáo là ngang bằng với việc kiểm kê rất nhiều, mà điều đó nhường nhịn như thật khủng khiếp khi chúng ta nghĩ tới các sản phẩm.
- Thực tiễn, nó càng trở nên tồi tệ hơn khi chúng ta bàn về nhân kiệt. Đó là bởi vì một sự kiểm kê về tài năng là mất nhiều phí tổn hơn là một sự kiểm kê về các mặt hàng. Anh tài không chỉ ngồi yên trên kệ như các mặt hàng. Bạn lại phải luôn chăm chú vào tài năng và cách tốt nhất để thiên tài rời bỏ bạn đó là hãy để nó ngồi im một chỗ và chờ đợi cơ hội. Thế nên, bất kỳ ai có tham vọng cũng sẽ rời bỏ, và rồi, sau chính bạn lại bị mất đi một khoản đầu tư lớn lúc trước mà bạn đã tập hợp vào cho người đó.”
- Việc tránh dồn kiểm kê lại có ảnh hưởng trực tiếp tới các những nỗ lực của các công ty nhằm quản trị được tình trạng không rõ ràng xung quanh quéo các đề xuất về hào kiệt của họ. Cappelli cho rằng: “giả như một đơn vị dự đoán rằng nó sẽ cần 100 kỹ sư mới trong năm đó. Nhưng chưa một ai từng đặt câu hỏi: ‘Làm thế nào để tính ra được sự ước đoán đó?’ Và thế là nó cứ xoay vòng, sự ước đoán đó hầu hết là luôn sai bởi vì các nhu cầu hoạt động kinh doanh rất khó để dự đoán được. Bởi vậy mà nó tiếp tục được đặt ra câu hỏi tiếp theo: ‘Điều gì xảy ra nếu chúng ta mắc sai trái?’
- Bạn có thể mắc sai lầm theo một trong hai hướng: hướng thứ nhất là bạn có thể có được nhiều kỹ sư cần thiết hơn bạn nghĩ và như vậy bạn sẽ phải hoặc tiếp nhận họ hoặc thải hồi họ; còn hướng thứ hai đó là bạn có thể có được ít kỹ sư cấp thiết hơn bạn nghĩ và như vậy thì bạn lại phải góp nhặt để tìm thêm cho đủ người. Và câu hỏi tiếp theo: ‘Trong từng trường hợp chúng ta đầu tư cho cái gì vậy? Và liệu chi phí đó có quá nhiều hoặc quá ít không?’ Và thường thì hồ hết trường hợp này là bị mắc sai lầm nhiều hơn so với cái khác.”
- Nếu các doanh nghiệp khởi đầu nghĩ suy về điều gì làm lợi thế trở thành sai lầm cũng như cái gì được kết hợp với các phí tổn, “thì sau đó họ sẽ biết cách nào để đánh cược và họ sẽ giảm đáng kể việc để mất quá nhiều tiền như kiểu trẻ em của mình”, Cappelli cho biết.
- Từ đó chúng ta thấy thử thách chính là hãy làm giảm lợi thế của việc mắc sai trái. Điều đó cho thấy được kỹ thuật khác từ việc vận trù học đó chính là phương pháp danh mục mà mục tiêu của nó là để giảm thiểu tính biến thiên xảy ra khi những thị trường khác nhau được dẫn dắt theo những hướng khác nhau. Trong thế giới tài chính, các nhà đầu tư tạo nên một danh mục các khoản đầu tư khác nhau mà một vài khoản nhường nhịn như trở thành tốt hơn trong khi những cái khác lại xấu đi nhằm giảm bớt sự lan truyền rủi ro toàn diện của chúng.
- Được ứng dụng vào quản trị thiên tài, khái niệm đó có nghĩa cân bằng hoàn toàn các loại rủi ro có thể xảy ra, tỉ dụ như khi những các phòng ban khác nhau trong một tổ chức lớn có tính phân tán cao cùng cố gắng dự đoán con số những người bán hàng (hoặc các nhà quản trị tổng hợp, các kỹ sư, v.V...) Thì mỗi phòng ban đều nghĩ nó sẽ phải cần đến.
- Và Cappelli giải thích rằng: “Một số phòng ban sẽ tính cần tới quá nhiều người bán hàng, và một số lại quá ít, nhưng nếu bạn tham dự vào những bộ phận khác nhau đó theo góc cạnh thuê người thì nhường nhịn như những sự biến đổi đó sẽ bị giảm gần hết hơn là được nhân lên. Vấn đề ở đây chính là các công ty đó bị phân tán nhiều tới mức thậm chí họ đã phải ngừng suy nghĩ về việc làm thế nào để sắp đặt được các vấn đề về thiên tài theo các bộ phận.”
- Và như ông đã viết trong cuốn sách của mình thì: “Theo ngôn ngữ của vận trù học và quản trị chuỗi cung ứng, các vấn đề về sự cung cấp quá thiếu và sự cung cấp quá thừa được biết một cách chung chung là ‘những chi phí không ăn nhập’.” Biện pháp danh mục chỉ rõ được vấn đề không thích hợp bằng việc khuyến khích các cơ quan kết hợp những nỗ lực phát triển tuấn kiệt khác nhau thành một chương trình phổ thông.
- Và khi một số phòng ban thổi phồng nhu cầu hay những bộ phận khác không đưa ra được nhu cầu thì “cơ quan lúc đó có thể bù lấp cho sự không thích hợp bằng cách luân chuyển những người ứng tuyển.”
- Việc giảm bớt các nút thắt cổ chai là một khái niệm chuỗi cung ứng khác thúc đẩy tới tài năng theo nhu cầu. Chả hạn như CIA từng gặp vấn đề này khi nó phải đối đầu với một bản danh sách chờ đợi hai năm để có được người duyệt những kỳ sát hạch an ninh.
- Và theo Cappelli thì: “Những người mới được   tuyển dụng   đều bị xếp vào hàng đợi mà không có việc gì để làm, đây hoàn toàn là cách mà hàng hóa có thể được xếp vào hàng đợi trong một dây chuyền lắp ráp kỹ thuật. Mà quan trọng hãy nhớ rằng dây chuyền lắp ráp kỹ thuật có thể chỉ chuyển động nhanh bằng bộ phận chậm nhất.”
- Trong trường hợp của CIA, bởi nó đã không đủ khả năng làm tăng lên dòng người duyệt y an ninh, và như vậy câu hỏi sẽ là: vì sao nó lại phải thuê quá nhiều người như vậy, dẫu biết rằng họ không thể di chuyển ngay hết được qua nút thắt cổ chai? Và Cappelli cho rằng: “cơ quan không nên thực hành việc thuê nhiều người cùng một lúc. Bạn nhận thấy điều này ở nhiều tổ chức, kể cả những công ty chỉ tuyển người có một năm một lần, giống như những người vừa tốt nghiệp đại học. Ví thử họ tuyển dụng 50 người tốt nghiệp vào tháng sáu theo các ngạch   huấn luyện   .
- Vào cuối năm, họ có được 50 người đang trông chờ để chuyển từ chương trình tập huấn sang những vị trí bền vững hơn. Vậy vì sao người thuê cần lao không đảo lại quá trình này và thuê người thành hai lần một năm thay cho có một lần thôi? Bởi không phải tất cả những người vừa tốt nghiệp đều thích khởi đầu đi làm vào tháng sáu, một số người thích đi du lịch còn một số khác thì thích bắt đầu đi làm muộn hơn.” Ưu điểm của việc đảo chiều việc tuyển dụng đó là công ty sau chỉ cần tuyển thêm một nửa số các vị trí được tập huấn và quan trọng hơn là có thể điều chỉnh được số lượng tuyển dụng vào thời khắc sát với theo những đổi thay về nhu cầu.
- Những thực thế vận trù học khác mà Cappelli nhắc tới có tương tác đến việc phát triển thiên tài bao gồm việc rút ngắn chu trình dự đoán, đơn vị lại việc phân bổ các chương trình phát triển nhằm nâng cao khả năng phản ứng và cả việc giải quyết “các vấn đề về hàng đợi”.
- Các vấn đề về hàng đợi thường xảy ra trong những trường hợp mà những người lao động đang chờ để nhận việc luân chuyển nhưng chẳng thể có được bởi những người đương thứ không thấy cần phải bổ khuyết vào, và những lý do có thể là do sự sụt giảm trong công tác kinh doanh, đổi thay về thời gian bổ dụng hoặc một sự trù tính lại sản xuất. “Sự tương tự trong việc sản xuất là một ‘dây chuyền (lắp ráp kỹ thuật) không cân bằng’, mà trong đó việc kiểm kê được gom dần lại sau tình trạng chuyển động chậm hơn, hoặc trong trường hợp này, việc cắt cử công việc mất nhiều thời kì hơn mới hoàn thành được.”
Phá sản thay vì bùng nổ
- Ngày nay nhiều cái gọi là những ý tưởng mới trong quản lý người tài như phản hồi 360 độ, các trung tâm kiểm tra, sự luân chuyển công tác và đặc biệt là lập mưu hoạch thành công dài hạn đều trở thành phổ thông trong thời kỳ hoàng kim của những tập đoàn đồ sộ cùng với sự phát triển bền vững ngay sau cuộc đời chiến thứ 2, và theo giám đốc trọng điểm về quản trị nhân sự của trường Wharton, Cappelli nhận xét thì: “Môi trường hoạt động kinh doanh hiện giờ đang phải chịu đựng đôi chút hao hao như đối với các trạm gác trong thời kỳ Thế chiến thứ 2, điều đó giảng giải được tại sao phương pháp dựa vào lập mưu hoạch không còn tạo được ý nghĩ nữa.”
- Những năm 1970 đã là một thời điểm như vậy, khi đó các đơn vị đã cẩn thận phác thảo ra những kế hoạch cho việc phát triển hào kiệt mà rút cuộc cũng bị sai lầm hoàn toàn. Cappelli nói: “Mọi người ai cũng đợi mong nền kinh tế bùng nổ mà thực tiễn thì nó lại nằm yên. Những người thuê cần lao đã đầu tư rất nhiều vào thiên tài nhưng họ đã không thể sử dụng được, điều đó dẫn tới một sư buông thả chung đối với việc quản trị người tài nội bộ.” Tình trạng suy thoái kinh tế sớm cùng với làn sóng đổi thay kỹ thuật của những năm 1980 đã chuyển đổi điều này. “Các đơn vị thải hồi một số lượng lớn những người lao động, điều đó có nghĩa rằng không còn ký ức về cơ quan trong những người cần lao. Đó là khi mọi người bắt đầu phát minh lại những thực tế đã trở nên phổ biến trong những năm 1950.”
- Còn trong những năm 1990, Cappelli cho biết, các đơn vị lại quay sang thuê làm bên ngoài theo, và thấy hứng thú một phần bởi số lượng lớn những người lao động bị sa thải là tàn tích từ những năm 1980, và một phần là bởi khả năng thuê được những người công nhân “vừa đúng lúc”. Nhưng những người thuê lao động cũng bắt đầu theo những người vừa rời khỏi các đối thủ cạnh trạnh của mình, và thế là một trò chơi đã tạo ra những vấn đề về giữ chân nhân sự và thường được kết thúc bằng một sự lôi kéo tốn kém một khi càng ngày càng có nhiều cơ quan cùng khởi đầu tham dự chơi. Thêm vào đó, các tổ chức cũng nhận thấy rằng việc thuê làm bên ngoài không làm được gì để cải thiện được ý thức cho những đứa ở trong đơn vị, những người nhận thấy những người mới đang thu được lợi qua mình.
- Các cơ quan giờ đều đang phải đối mặt với tình thế tới lui lưỡng nan: nói một cách khác, rất khó để có được lợi nhuận từ việc đầu tư vào phát triển hào kiệt khi những ưu tiên thốt nhiên đổi thay và những người lao động đổi thay công tác vài năm một lần thay cho một hoặc hai lần trong cả một sự nghiệp. Nhưng việc làm cho không có sự phát triển nội tại và chỉ tin vào việc thuê làm bên ngoài cũng khó giải quyết khi mà nó để cho người thuê cần lao dễ bị tấn công bởi những ý thích chợt nảy sinh của thị trường lao động.
- Và theo Cappelli thì: “Cái chúng ta cần là một cách giải quyết tình trạng không rõ ràng về các nhu cầu hoạt động kinh doanh cũng như tình trạng không rõ ràng về những nguồn tài năng nội tại.”, Và ông cũng lưu ý rằng sự chọn lựa không chỉ giữa việc phát triển thiên tài theo cách nội tại hoặc việc thuê làm từ bên ngoài. Nhưng sự lựa chọn tốt hơn đó là để làm được cả hai: hãy sử dụng các mô hình ăn nhập hơn về phát triển nội tại mà bao gồm cả việc có được những người lao động nhằm giảm bớt phí, và rồi sau đó sử dụng những người thuê làm bên ngoài để lấp đầy vào những chỗ thâm hụt khi các dự đoán vững chắc chứng minh sai.
- Những doanh nghiệp đang dịch chuyển theo định hướng mới này kể cả những cơ quan mới khởi đầu thì đều phải có một danh sách công tác rõ ràng như đối với những thực tiễn về phát triển nhân kiệt, còn những hãng dịch vụ chuyên nghiệp, nơi luôn có được sự pha trộn tài năng ăn nhập là đặc biệt quan yếu. Cappelli nói: “Các hãng tư vấn, các hãng kiểm toán, các hãng luật và tất cả đều đã bắt đầu cố gắng để tính được phí tổn của việc quay lại quản lý tài năng nghèo nàn vào năm 1990 khi thị trường lao động cũng đã trở nên bít tất tay do nhu cầu liên tục tuyển thêm người mới, vậy nên họ biết rằng khả năng cạnh tranh của họ chỉ có thể được dàn xếp một cách ác liệt bằng việc xoay vòng công tác cao.” Đặc biệt các hãng ở Ấn Độ, nơi có thể là những người lãnh đạo suy nghĩ về việc quản lý nhân tài theo các cách mới bởi nhu cầu tài năng ở sơn hà này quá khốc liệt, ông cho biết thêm.
‘Ngày phép tự nguyện’ của Cisco
- Cappelli đã đưa ra các quá trình quản trị người tài tại một số tổ chức bao gồm như Unilever, IBM, General Electric, EDS, Dow, Capital One, Citibank, Corning, Johnson & Johnson và Bear Stearns, nhằm diễn đạt rõ hơn.
- Ông bộc lộ mô hình dự đoán tinh vi ở Dow, cái đã biết kết hợp chặt chẽ việc dự đoán dựa trên thống kê truyền thống với các nhân tố chẳng hạn như xu thế hoạt động kinh doanh và chính trị tại mỗi quốc gia mà Dow đặt sự điều hành, những đổi thay trong luật cần lao và việc làm, cùng với những kế hoạch kinh doanh cho những đơn vị đang điều hành. Cappelli viết rằng: “Những hệ thống chuẩn làm cho nó có thể kết hợp được những kiểm tra cá nhân thành một dự án nói chung cho cơ quan.“
- Tại Capital One, nơi thử thách là phải giúp được công ty lập kế hoạch cho nguồn lao động của mình, đang đi từ 20.000 nhân viên năm 2001 xuống còn 14.000 viên chức năm 2005 và tới năm 2007 là 30.000 viên chức sau một loạt các yêu cầu, doanh nghiệp đã phải tụ hội một đội gồm các chuyên gia về nghiên cứu tiếp thị và điều hành sản xuất nhưng tuyệt nhiên không có ai từ nhiệm năng quản trị nhân sự truyền thống.
- Nhóm đã sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu, các mô hình sinh sản và thông tin từ hệ thống PeopleSoft của mình để tạo ra những mô hình lên kế hoạch người tài cho từng doanh nghiệp kinh doanh. “Không chỉ dự đoán được số người được yêu cầu trong từng vai trò, họ còn dựng được những mô hình cho biết các kết quả chả hạn như tỷ lệ suy yếu về lòng tin, ý thức làm việc, tỷ lệ về sự khuyến khích hay tỷ lệ về những người thuê làm bên ngoài.” Thay đổi lớn ở cả hai tổ chức này chính là những mô hình đó đã bỏ qua được việc dự đoán truyền thống và hướng sự mô phỏng vào giải quyết tình trạng không rõ ràng trong hoạt động kinh doanh.
- Mà theo Cappelli thì: “Hơn vì việc tạo được một sự kiểm tra tĩnh về việc bao nhiêu công nhân sẽ được cần trong hai năm tới, họ lại nói với những nhà quản trị sản xuất rằng: ‘Hãy nói cho chúng tôi về những giả định mà theo các ngài cần phải có cho công tác kinh doanh của mình, còn chúng tôi sẽ đưa cho các ngài một bản đánh giá người tài. Nhưng tốt hơn thì hãy đưa cho chúng tôi cả một loạt những giả định khác nhau, còn chúng tôi sẽ đưa cho các ngài một loạt những bản kiểm tra người tài mà trong đó tính chính xác hầu như sẽ có vẻ hơi dối trá.’”
- Cappelli cũng kể lại chi tiết những nỗ lực mà một số đơn vị đã thực hành để đưa cho những người lao động sự kiểm soát nhiều hơn qua quá trình phát triển sự nghiệp và bởi thế mà họ dường như trở nên gắn bó với doanh nghiệp hơn. Lấy ví dụ như Duke Power cho phép những người lao động, trong những điều kiện cụ thể, gửi và đổi công tác với những người cần lao khác có cùng công việc và mức   lương   như của họ. Còn hãng Coca-cola lại công ty những lễ hội công việc cho những nhân viên kiểm toán ít kinh nghiệm của mình; Gap thì điều hành một văn phòng săn đầu người nội bộ nơi những người lao động với chí ít hai năm kinh nghiệm có thể tìm kiếm những vị trí khác trong công ty.
- Chubb “đã mở rộng thị trường cần lao nội bộ của mình bằng cách loại bỏ cả nhiệm kỳ công tác và chuẩn y giám sát ngay với những đề xuất đối với đổi thay công việc trong doanh nghiệp”. Học viện McKinsey còn gửi tất cả các dự án cần có sự hiệp tác (với đối tác là người lao động bậc thấp) vào một hệ thống trên toàn thế giới kèm theo thông báo có ảnh hưởng tới ngành kinh doanh, khách hàng, đội ở nhà và kiểu công việc dự án. Sau đó nó khuyến khích những người hợp tác tham dự theo sự ưa thích của họ.
- Trong suốt thời kỳ khủng hoảng công nghệ thông báo năm 2001 và sau đó, Cisco đã đưa ra một ‘ngày phép tình nguyện’ với những người lao động của mình mà theo đó cơ quan đồng ý trả một phần ba mức lương của họ trong thời kì họ làm việc tại những công ty phi lợi nhuận. Còn Deloitte thì lại cố gắng giữ những người cần lao chính thức của Deloitte & Touche gia nhập vào công ty trong vòng năm năm sau khi họ đi khỏi khỏi cơ quan (thường vì những lý do gia đình), trong trường hợp họ chưa có một công việc mới.
- Chương trình Personal Pursuits của hãng bao hàm chứng nhận và lệ tổn phí các chương trình kỹ năng nhằm giúp họ ở lại chắc chắn, cũng như đưa ra sự tầm nã cập vào các chương trình sự nghiệp doanh nghiệp và cuộc sống công việc cùng những chương trình khác. Ý tưởng trong cả hai trường hợp này đều là để giữ những người cần lao “ở trên móc” cùng với công ty đến mức họ có thể nhanh chóng hòa nhập lại với công tác nếu bất chợt có nhu cầu.
- Cappelli cũng thừa nhận rằng tình trạng không rõ ràng về việc liệu những kỹ năng nào sẽ được cần trong tương lai và liệu những người lao động sẽ ở lại hay không làm cho nó trở nên khó khăn đối với những người thuê lao động nhằm thu lại được những khoản đầu tư vào chính những người cần lao đó. Một trong những cách tốt nhất để giải quyết vấn đề này đó là phải có được những người cần lao cùng chia sẻ được các phí tổn phát triển.
- Cappelli lưu ý rằng: “Hơn vì cố gắng gợi ý ai đó sẵn sàng vì sự thăng cấp thì nhiều doanh nghiệp vừa chuyển hướng vào việc tự bổ dụng, điều đó khiến các cá người thương nguyện hoặc ứng cử theo những kinh nghiệm phát triển. Thường những người thuê cần lao luôn đề xuất rằng các người tìm việc phải giữ được các công việc thường xuyên của mình và duy trì việc thực hiện tốt chúng. Vậy nên với những kinh nghiệm phát triển, điều thường nhật dựa trên công việc, thì đều hoàn toàn được tự nguyện đối với đơn vị.”
Bán những ý tưởng cũ như những định nghĩa mới
- Bên cạnh đó, đối với phần đông phòng ban, các cơ quan vẫn chưa biết phải đi theo những định hướng mới khi mà nó đòi hỏi phải kế tục các giải pháp quản trị tuấn kiệt hiệu quả hơn. Đây là thực thụ là điều khôn xiết đặc biệt đối với những đơn vị lớn và có tiếng như General Electric, Procter & Gamble, IBM, PepsiCo cùng với các thành viên của ngành công nghiệp dầu mỏ. Phần nhiều được biết như là “các doanh nghiệp học viện” khi mà tiếng tăm của chúng được nhắc tới như là những nơi mà những người lao động tới để học hỏi được các kỹ năng quản trị rồi sau đó được các hãng khác thuê lại.
- GE “vẫn đang làm điều mà nó đã từng làm vào những năm 1950”, Cappelli nói: “Nó đã đưa ra một mô hình và mô hình đó không hề được thẩm tra. Một số phần của mô hình này hoạt động rất tốt và tương đối phù hợp với cái mà tôi trình bày đặc biệt là khả năng để tạo được những cái ăn nhập giữa con người và thời cơ nhưng những thành phần khác thì lại không được hiệu quả, chẳng hạn như mục tiêu của việc có được những hiểu biết thấu đáo về nhân tài. IBM không còn bảo đảm cho mọi người vòng đời lao động nữa và họ thực hành một số công việc bằng cách thuê bên ngoài, nhưng họ vẫn quản lý những thời cơ thăng tiến của những nhà quản trị của mình từ các trụ sở.”
- Bởi vậy mà nhiều người quản trị nhân sự đã bị sa thải trong suốt những năm 1980, mà những người làm quản lý viên chức không biết rằng việc hoạch định các mô hình nhiều cái đang thực thi thực ra đã có cách đây hàng thập kỷ. Thế nên Cappelli đã phát biểu rằng: “Những người quản trị viên chức tất cả đều đang uống cùng một loại Kool – Aid. Họ đang bán những cái thực tiễn đó như thể họ có được những ý tưởng mới. Trong khi đó, kế toán nội bộ lại quá kém đến nỗi họ thậm chí không biết được nổi tổn phí cho những cố gắng quản trị anh tài thiếu hiệu quả của mình. Các đơn vị không hề nhận thấy rằng họ cần có một sự đổi thay.”
- Một cách thức mới đối với quả trị nhân tài là cấp thiết vì hai lý do quan trọng mà theo Cappelli đó là: Về mặt chính sách công khai, các doanh nghiệp không được phát triển nhân kiệt theo kiểu các đề nghị ở Mỹ để tránh cạnh tranh. Còn về mặt người chủ, hầu hết các đơn vị đều đang không hoạch định tuấn kiệt, hoặc việc hoạch định của họ bị sai, thì ngay lúc này việc khả năng có thể thuê bên ngoài làm dựa trên cơ sở vừa đúng lúc của họ cũng đang bị bào mòn. Những người thuê cần lao chẳng thể dễ dàng nhận thấy những người lao động gian lận, thành ra mà nó vẫn là một quá trình tốn kém và mất rất nhiều thời kì để có được cái nhìn công bằng.
- Cappelli cho biết, lúc đầu khi việc hoạch định các thực tế được bắt nhan đề xướng thì các thị trường đều đủ bền vững để tạo được khả năng hoạch định lâu dài. “Chẳng hạn như IBM đã từng có những kế hoạch hoạt động kinh doanh 15 năm được tính toán rất chính xác. Các cơ quan trong ngành kinh doanh vũ khí phòng vệ đã có những kế hoạch 10 năm.
- Bạn cũng đã không phải đưa ra những điều chỉnh cuối năm về sau. Nhưng hiện tại, nhu cầu có thể đổi thay chỉ trong vòng một năm. Sự uy tín và nghĩa vụ phải giải trình đều được đẩy sang cho các cá nhân chứ không phải là các hệ thống, và việc luôn thay đổi sự nghiệp giữa các đơn vị là khá cao. Thế nên những người thuê lao động phải thích nghi được với thực tiễn đó.”
Quantri.Vn